*** Liên hệ tư vấn kỹ thuật, mua sản phẩm 02723 820 202; 02723 526 310; 02723 826 997 ***

Chăn nuôi

Kỹ thuật nuôi heo sinh sản (PHẦN 4)


KỸ THUẬT NUÔI HEO SINH SẢN

2. KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG THỨC ĂN VÀ BẢO QUẢN

2.1. Trường hợp tự phối trộn thức ăn

Các yếu tố gây hại và làm giảm chất lượng thức ăn từ các nguồn nguyên liệu dùng phối trộn thức ăn như: tấm, cám, bắp, bột cá, bánh dầu đậu,…; Các loại vi sinh vật như vi-rút, vi khuẩn, ký sinh trùng, côn trùng, nấm mốc,…; Các loại độc tố, kháng sinh, chất kích thích tố (hóc-môn), thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, chất bảo quản, chất hút ẩm,…; Các vật lẫn tạp như mãnh kim loại, nhựa, gỗ, bụi, cát,…

Việc ngăn ngừa, loại bỏ các yếu tố gây hại trong các loại thực liệu dùng phối trộn thức ăn bao gồm các biện pháp: kiểm tra về xuất xứ nguyên liệu, màu sắc, mùi vị, lưu mẫu thức ăn.

Cách thức phối trộn và bảo quản thức ăn cũng là một công đoạn ảnh hưởng đến chất lượng thức ăn. Về nguyên tắc, việc phối trộn cần đảm bảo độ đồng đều, nhất là trong các trường hợp có bổ sung thêm thuốc thú y, các chất phụ gia bảo quản hay các chế phẩm bổ sung dinh dưỡng. Dụng cụ dùng phối trộn phải đảm bảo sạch sẽ.

Nên ghi lại đầy đủ thông tin về số lượng thức ăn đã phối trộn từng đợt để tính toán thời gian cần sử dụng hết. Thông thường thức ăn tự trộn không nên để lâu hơn 7 ngày và nếu có trộn thêm thuốc kháng sinh thì thời gian bảo quản không quá 5 ngày.

2.2. Trường hợp sử dụng thức ăn hỗn hợp, đậm đặc sản xuất công nghiệp

Nên chọn lựa các loại thức ăn có thương hiệu, uy tín tốt (ưu tiên chọn các nhà sản xuất đã được cấp chứng nhận áp dụng hệ thống quản lý chất lượng HACCP, GMP,…). Dù vậy, vẫn cần thực hiện việc lưu mẫu thức ăn cho từng đợt mua nhập.

Khi mua thức ăn hỗn hợp, đậm đặc chế biến công nghiệp cần kiểm tra chủng loại phù hợp với lứa tuổi heo, kiểm tra bao bì, số lô hàng hóa, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng và khi sử dụng cần thực hiện đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.

Trong trường hợp cần trộn thêm thuốc thú y hay các chế phẩm khác cần lưu ý sử dụng đúng liều lượng hướng dẫn, ghi lại đầy đủ thông tin chủng loại, liều lượng, thời gian đã dùng thuốc, chế phẩm. Tốt hơn hết là nên tham khảo ý kiến của nhân viên kỹ thuật khi muốn trộn thêm bất kỳ loại thuốc, chế phẩm nào đó để tránh lãng phí.

2.3. Bảo quản

Nguyên liệu thức ăn tự phối trộn hoặc thức ăn công nghiệp đều cần cất giữ ở nơi riêng, thông thoáng, không bị mưa tạt, dột và được sắp xếp theo từng nhóm riêng. Việc xuất nhập thức ăn cần thực hiện theo nguyên tắc trình tự: nhập trước xuất trước, nhập sau xuất sau. Đồng thời, cần ghi lại đầy đủ số liệu thức ăn nhập, xuất về tên, loại thức ăn, thời gian lưu mẫu để kiểm tra, thời gian nhập - xuất. Nguyên liệu và thức ăn đóng bao sẳn khi nhập về đều cần kiểm tra độ ẩm, ẩm độ tốt nhất là 12 - 14%, nếu cao hơn mức này cần phơi lại.

Không cất giữ thức ăn chung với các loại hóa chất có thể gây độc cho heo như xăng, dầu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Đồng thời, không để các loài gặm nhấm, chim và bất kỳ động vật khác vào nơi chứa thức ăn. Nơi chứa thức ăn được định kỳ sát trùng để diệt mầm bệnh, sâu mọt, nấm mốc. Tương tự, các loại dụng cụ dùng phối trộn thức ăn cần được vệ sinh thường xuyên và định kỳ sát trùng. Riêng các loại cân cần định kỳ kiểm tra để hiệu chỉnh chính xác.

3. KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG NƯỚC UỐNG

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và gây hại có trong nước uống cũng tương tự như trong thức ăn; do đó, cần kiểm soát chặt chẽ và thường xuyên chất lượng nước. Thông thường, nguồn nước sử dụng cho heo uống cần được lấy mẫu kiểm tra định kỳ ít nhất 6 tháng một lần và kiểm tra bổ sung khi có dấu hiệu nghi ngờ (các chỉ tiêu chính cần kiểm tra là các chỉ số BOD5, COD, NO2,vi khuẩn Coliform tổng số, Salmonella,…).

Nước uống có thể bị nhiễm các yếu tố có hại từ nguồn (sông, giếng, ao, hồ,…) và từ hệ thống cấp nước (bồn chứa, ống dẫn, máng uống, núm uống,…). Vì vậy, việc lấy mẫu nước kiểm tra cần thu thập ở đầu nguồn và ở cuối nguồn.

Tùy theo kết quả kiểm tra chất lượng nước uống để có biện pháp xử lý bằng cách lắng, lọc loại bỏ các yếu tố vật lý như cặn bả, phèn, đất, cát và sử dụng thuốc sát trùng (như chlorine, iodin, chloramin B, aquatabs,…) để diệt trừ các vi sinh vật có hại.

Trường hợp pha thuốc thú y, chế phẩm sinh học, chế phẩm bổ sung dinh dưỡng vào nước uống cần định lượng kỹ nhu cầu tiêu thụ nước trong buổi hoặc ngày của số heo cần cho uống để pha đúng liều lượng đảm bảotiêu thụ hết, không gây mất tác dụng hoặc lãng phí.

PHẦN 4: CHĂM SÓC

1. NUÔI HEO THỊT

Tiến trình nuôi heo thịt có thể chia làm 3 giai đoạn như sau:

1.1. Giai đoạn từ 15 - 30 kg (heo con)

Giai đoạn này heo lớn rất nhanh nên cần đầy đủ các chất dinh dưỡng và cho ăn tự do. Ở độ tuổi nhỏ nên heo con rất nhạy cảm với các thay đổi đột ngột về thời tiết, thức ăn, cách cho ăn, môi trường nuôi,… nên dễ bị “stress”; vì vậy, cần duy trì cách chăm sóc và sử dụng khẩu phần thức ăn ổn định, nếu phải thay đổi thức ăn thì cần chuyển dần từ ít sang nhiều. Giai đoạn này nên sử dụng khẩu phần thức ăn có mức năng lượng trao đổi khoảng 3.000 Kcal/kg, tỷ lệ đạm 17% và nên cho ăn 5 - 6 lần trong ngày.

Để phòng bệnh tổng quát cho heo, có thể định kỳ 2 - 3 ngày liên tiếp mỗi tuần trộn thức ăn hay pha nước uống một trong các loại thuốc kháng sinh như Oxytetracyclin, Tetracyclin, Flumequine, Colistin,… và bổ sung các chế phẩm có chứa men tiêu hóa trong thức ăn để tăng khả năng hấp thu, chuyển hóa các chất dinh dưỡng.

1.2. Giai đoạn từ 30 - 60 kg (heo lứa)

Giai đoạn này heo đã có sức đề kháng tốt nên ít gặp bệnh, lúc này heo vẫn còn tăng trưởng nhanh nên cần khẩu phần thức ăn có mức năng lượng trao đổi khoảng 2.900 Kcal/kg, tỷ lệ đạm 15%. Nên cho ăn khoảng 4 lần trong ngày và vẫn nên áp dụng cách định kỳ pha trộn trong thức ăn, nước uống thuốc phòng bệnh, men tiêu hóa như giai đoạn trước.

1.3. Giai đoạn từ 60 kg đến xuất chuồng (vỗ béo)

Ở giai đoạn này heo có khuynh hướng tạo mỡ nhiều hơn; do vậy mức năng lượng trao đổi trong thức ăn cần ít hơn 2 giai đoạn trước; chỉ cần khoảng 2.800 Kcal/kg, tỷ lệ đạm 13%. Số lần cho ăn trong ngày nên định kỳ 3 bữa, nên tiếp tục bổ sung men tiêu hóa trong thức ăn.

2. NUÔI HEO SINH SẢN

Tiến trình nuôi heo sinh sản có thể chia làm 3 giai đoạn

2.1. Giai đoạn hậu bị và chuẩn bị phối giống

Nuôi dưỡng heo cái ở giai đoạn này cần cung cấp đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng; tuy nhiên, không cho ăn tự do; nhất là thức ăn chứa nhiều chất bột đường. Cần định lượng thức ăn và theo dõi kiểm tra thường xuyên mức tăng trọng để tăng, giảm lượng thức ăn sao cho heo tăng trọng sát với tiêu chuẩn của giống, tránh quá mập hoặc quá gầy. Về nguyên tắc, nếu heo bị mập mỡ hoặc quá ốm sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng động dục, đậu thai, mang thai và cho sữa sau này. Khi đến thời điểm 2 tuần trước khi phối giống cần tăng dần số lượng thức ăn, tăng tỷ lệ đạm, bổ sung thêm vitamin và khoáng.

Thời điểm động dục (lên giống) của cái tơ lần đầu tiên vào lúc 7 - 8 tháng tuổi; tuy nhiên, nên bỏ qua “nước đầu” mà chỉ nên phối ở lần động dục thứ 2 hoặc thứ 3 khi trọng lượng heo đạt từ 110 - 115 kg trở lên. Chu kỳ lên giống của heo trung bình là 21 ngày (dao động từ 19 - 22 ngày). Khi heo bắt đầu động dục có biểu hiện giảm ăn, ít nằm, không yên, hoa khế nở đỏ, ấn tay trên lưng phần sau nái đứng yên, vểnh tai; tuy nhiên, lúc này chưa nên phối giống mà chờ vào ngày thứ 3, 4 khi hoa khế teo lại, rỉ nước nhờn là lúc phối thích hợp. Nên phối vào lúc sáng sớm hay chiều mát, hoặc phối cả 2 lần để tăng khả năng đậu thai. Trước khi phủ nọc khoảng 15 - 20 ngày cần tiêm phòng đầy đủ các loại vắc-xin phòng các bệnh truyền nhiễm chính.

2.2. Giai đoạn mang thai

Thời gian mang thai của heo là 114 ngày (dao động từ 1- 4 ngày), nái tơ thường đẻ sớm hơn. Sau khi phủ nọc, nếu đã đậu thai, một số nái vẫn có biểu hiện động dục ở chu kỳ sau nhưng không rõ ràng mà thường chỉ kéo dài 1 - 2 ngày, không bỏ ăn và cũng không chịu nọc. Hiện tượng này được gọi là “nhớ con nước”. Cần theo dõi để xác định chắc chắn heo đã mang thai hoặc chưa.

Heo mang thai cần được nuôi trong môi trường yên tĩnh, thoáng mát, tránh di chuyển hay gây kích động mạnh. Nếu heo có điều kiện vận động nhẹ và thường xuyên thì rất tốt cho việc dưỡng thai và sinh con sau này; tuy nhiên, trong vòng 28 ngày đầu của thai kỳ không nên để heo di chuyển nhiều.

Khẩu phần heo mang thai cần đầy đủ các chất đạm, vôi, lân và vitamin. Trước khi sinh khoảng 3 ngày, giảm thức ăn nhiều đạm và bột đường, cho ăn thêm rau xanh và nên chia bữa ăn ra làm 4 - 5 lần trong ngày. Khi vú căng, vắt ra sữa non bắt đầu lau rửa thường xuyên cho heo và chuẩn bị chuồng đẻ đã được vệ sinh, sát trùng

2.3. Giai đoạn sinh con

Trước khi heo đẻ, cần chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ như : khăn, bột lăn, giẻ sạch, cồn iốt, chỉ, kéo, kềm bấm răng,… đã sát trùng và thuốc giục đẻ, dây, xà-bông, dầu bôi trơn,… để xử lý kịp thời trường hợp đẻ chậm, đẻ khó. Chuồng heo đẻ trước đó cần được vệ sinh, sát trùng và làm ngăn úm heo con có lót rơm hay lá chuối khô sạch, thắp đèn úm trong ngăn úm trước khi nái sanh 1 - 2 giờ để tạo sẳn môi trường ấm khi đưa heo con vào.

Lúc chuyển bụng, heo nái có biểu hiện không yên, đi lại nhiều, tiêu tiểu liên tục, ủi máng, cắn phá chuồng,… Sau khi vỡ nước ối, rồi đến khi phân su chảy ra là bắt đầu đẻ, chậm nhất là 30 phút sau đó. Thường heo đẻ hết con trong vòng vài giờ, trung bình 15 - 30 phút có một con lọt lòng; tuy vậy, khi nái rặn yếu, có thể cần 8 - 10 giờ mới đẻ xong. Nhau thai ra sau cùng, cần kiểm tra kỹ số heo con và lá nhau để xác định có sót nhau hay không.

Lúc heo đẻ không gây xáo trộn, tiếng ồn, nên xoa bóp phần bụng phụ giúp nái rặn đẻ. Bình thường để heo đẻ tự nhiên, chỉ can thiệp khi heo có biểu hiện đẻ quá chậm bằng cách sử dụng thuốc giục đẻ (Oxytocin). Sau khi nái đẻ xong, dọn bỏ giẻ, rơm bẩn, dùng nước ấm rửa vú, âm hộ và xung quanh mông.

Cho heo nái sau khi đẻ uống đầy đủ nước sạch. Trong 1 - 2 ngày đầu chỉ nên cho heo ăn các loại thức ăn dễ tiêu ở dạng lỏng. Cần quan sát thật kỹ biểu hiện của heo sau khi đẻ bằng cách đo thân nhiệt, quan sát tình trạng ăn uống, cách nuôi con,… để phát hiện sớm các biểu hiện bất thường để can thiệp kịp thời.

Heo con vừa lọt lòng được lau nhớt toàn thân bằng khăn sạch, móc sạch nhớt trong mũi, miệng. Trường hợp heo con bị ngạt, cần hút ngay nhớt trong mũi, dốc ngược heo rồi vỗ nhẹ đều vào thân để kích thích huyết quản lưu thông. Dùng chỉ gút rốn độ 2 - 3 phân cách thành bụng, cắt cách chỗ cột 1 phân, nhúng chỗ cắt vào cồn i-ốt; lập lại thao tác sát trùng rốn trong 3 ngày, mỗi ngày 2 lần. Trong trường hợp đẻ khó và đã dùng các loại thuốc giục đẻ như Oxytocin thì thuốc có thể gây phản ứng mất máu một ít trên heo con, nên ngay sau khi vừa lọt lòng cần buộc ngay cuống rún rồi mới thực hiện tiếp các khâu khác.

Khi cắt răng heo con nên cắt đủ 8 răng và cắt sát nướu. Sau khi cắt răng đưa ngay heo con vào ngăn úm, khoảng 5 - 10 phút sau cho những con đẻ trước bú sữa mẹ lúc mẹ vẫn còn đang đẻ tiếp. Mục đích cho bú sớm để heo con lấy được sữa đầu giàu chất dinh dưỡng và có kháng thể phòng bệnh; đồng thời, giúp heo mẹ quen cảm giác cho con bú và kích thích heo mẹ tiếp tục rặn đẻ.

Cần giữ ấm cho heo con trong vòng 7 đến 10 ngày. Trong thời gian này nên tập cho heo con bú theo từng đợt và đồng loạt, ngày đầu tiên cho heo bú mỗi giờ một lần, những ngày kế tiếp giảm xuống còn khoảng 8 - 10 cữ vào ban ngày cách nhau 1 - 2 giờ, ban đêm 4 - 6 cữ cách khoảng 2 - 3 giờ. Thường heo con bú trong vòng 7 - 10 phút là đủ, nên theo dõi để bắt heo con đưa trở lại ngăn úm. Các vú phần thân trước của heo mẹ thường cho nhiều sữa hơn các vú ở phần thân sau; do đó, nên đưa các heo nhỏ, yếu bú các vú phía trước; ngoài ra, để tránh tình trạng heo con bú không đều nên chú ý nâng đổi tư thế nằm của heo nái.

Sau giai đoạn đầu cần giữ ấm cho heo con trong ô úm thì sang các ngày sau vẫn nên duy trì ô chuồng riêng của heo con để thực hiện cách cho bú đúng cữ và đồng loạt cả bầy. Cách làm này tốt hơn là cho bú tự do và thuận tiện khi tập cho heo con ăn sớm sau này.

Sữa heo mẹ có xu hướng giảm dần từ tuần lễ thứ 3 trở đi; vì vậy cần tập cho heo con biết ăn từ ngày thứ 7 - 10 bằng các loại thức ăn công nghiệp chuyên dùng cho heo con tập ăn. Thời gian cho cai sữa thích hợp là lúc heo con được 28 - 30 ngày tuổi; lúc này trọng lượng heo được khoảng 5,5 - 6 kg. Để phòng heo con hay bị tiêu chảy lúc cai sữa, nên hạn chế bớt lượng thức ăn trong 3 ngày đầu sau khi cai sữa và chia ra nhiều bữa ăn trong ngày, nên bổ sung vào thức ăn các loại chế phẩm có chứa khoáng, vitamin và kháng sinh phòng bệnh.

Đối với heo đực, cần thiến càng sớm càng tốt. Nên thiến lúc 7 - 10 ngày tuổi (thực tế có thể thiến lúc 3 ngày tuổi); không nên thiến quá trễ, quá cận với ngày cai sữa để tránh gây sốc cho heo con.

Nhằm khai thác cao nhất hiệu quả nuôi heo sinh sản, cần chú ý nuôi dưỡng heo mẹ thật đầy đủ lúc nuôi con và cho heo con cai sữa sớm để heo mẹ mau hồi phục. Trước thời điểm cai sữa 3 - 5 ngày, giảm dần lượng thức ăn cho heo mẹ để giảm tiết sữa. Vào ngày dứt sữa hoàn toàn nên chuyển heo mẹ sang chuồng khác, heo con giữ lại chuồng cũ ít nhất 7 ngày rồi mới chuyển sang chuồng mới nuôi thịt hoặc hậu bị. Sau khi cai sữa vẫn tiếp tục cho heo con ăn thức ăn tập ăn đến khi đạt trọng lượng 15 - 20 kg cho chuyển dần sang thức ăn heo hậu bị nếu giữ lại làm giống hoặc thức ăn nuôi thịt nếu nuôi thương phẩm.

Đối với heo nái thì bình thường 3 - 5 ngày sau khi lẻ bầy sẽ động dục trở lại; tuy nhiên, nếu nuôi dưỡng kém, heo nái suy yếu nhiều thì động dục trễ hơn. Ngược lại, một số heo nái động dục rất sớm trong lúc còn đang nuôi con, nhưng thường biểu hiện động dục lúc này luôn ngắn, không rõ ràng; vì vậy, không cho phối giống.

Thông thường một lứa heo đẻ trên 9 con mới có hiệu quả; do đó, nếu qua 1 hoặc 2 lứa đẻ mà thấy số con mỗi lứa quá thấp hoặc nái nuôi con kém, tỷ lệ nuôi sống đến lẻ bầy thấp thì cần loại thải. Heo thường cho kết quả sinh sản tốt nhất ở độ tuổi 2 - 4. Từ 5 tuổi trở đi, sức sinh sản giảm dần và một số nái sinh tật dữ nên cần tính toán để loại thải.

(CÒN TIẾP)



Các tin khác: